Những kinh nghiệm quốc tế trong đầu tư đường sắt tốc độ cao

HUYỀN SÂM
Chia sẻ

Giaothonghanoi - Các chuyên gia của Chương trình Aus4Transport do Bộ Ngoại giao và Thương mại (DFAT) của Chính phủ Australia vừa có buổi chia sẻ kinh nghiệm quốc tế tốt để hỗ trợ Cục Đường sắt Việt Nam xây dựng dự thảo Luật Đường sắt 2017 sửa đổi.

Chia sẻ tại Hội thảo "Những kinh nghiệm quốc tế tốt hỗ trợ Cục Đường sắt Việt Nam xây dựng dự thảo Luật Đường sắt 2017 sửa đổi", ông Trần Thiện Cảnh, Cục trưởng Cục Đường sắt Việt Nam cho biết, hiện Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Đường sắt (sửa đổi) đã được đơn vị chủ trì tham mưu cho Bộ GTVT theo đúng quy định.

Đến nay, Bộ GTVT đã tiếp thu đầy đủ ý kiến của Thường trực Chính phủ, thành viên Chính phủ, các ý kiến của các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức và đang chỉnh lý, hoàn thiện hồ sơ. Dự kiến sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2025) và được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2025).

Nhung kinh nghiem quoc te trong dau tu duong sat toc do cao - Hinh anh 1
Các chuyên gia trong và ngoài nước chia sẻ kinh nghiệm. Ảnh: Báo giao thông 

Ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng

Về vấn đề đầu tư đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC), từ thông lệ quốc tế đến việc khảo sát và nghiên cứu thực trạng đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC) ở Việt Nam, theo chuyên gia Martin Baggott, hiện nay, một số quốc gia trên thế giới đã có các quy định đặc thù và thành lập các cơ quan nhằm triển khai các quy định về thu hồi đất và các vấn đề khác. Qua đó, đẩy nhanh tiến độ trong giai đoạn đầu phát triển dự án ĐSTĐC.

Nguồn vốn nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong đầu tư ĐSTĐC và được quy định rõ trong Luật ở các quốc gia này. Ví dụ như tại Nhật Bản, Đạo luật phát triển đường sắt Shinkansen quy định rõ thẩm quyền quản lý và việc đóng góp của chính quyền địa phương vào chi phí đầu tư dự án. 

Trong khi đó, chi phí đầu tư phương tiện thường chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng chi phí của hệ thống ĐSTĐC và gần như 100% được sở hữu (hoặc cho thuê lại) bởi các doanh nghiệp vận hành, quản lý và khai thác đường sắt.

Trên thế giới hiện nay, có bốn phương pháp chính để huy động vốn cho cơ sở hạ tầng đường sắt, gồm: Nguồn ngân sách Nhà nước, thông qua cấp phát ngân sách trực tiếp, cho vay hoặc cả hai; Chính phủ và nguồn vốn góp của thành viên liên doanh (mô hình của Trung Quốc), trong một số trường hợp có thể kết hợp với bên thứ ba; PPP/ Mô hình nhượng quyền; PPP/ Mô hình thanh toán dựa trên chất lượng dịch vụ - Pháp (Tours – Bourdeaux, Nimes – Montpellier).

Đầu tư đường sắt tốc độ cao trên thế giới hầu hết đều theo hình thức đầu tư công, một số tuyến ĐSTĐC được đầu tư theo hình thức PPP nhưng phần lớn chưa thành công và vẫn cần sự hỗ trợ lớn của nhà nước. Việc hỗ trợ chi phí xây dựng hoặc theo hình thức Nhà nước thanh toán cho chi phí vận hành và bảo trì nhằm giảm rủi ro về doanh thu cho nhà đầu tư. Các doanh nghiệp tư nhân cũng thường chỉ tham gia đầu tư ở một số tuyến có khả năng sinh lợi.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy mô hình PPP trong đầu tư đường sắt tốc độ cao phần lớn chưa thành công. Đối với Việt Nam, việc huy động vốn từ nguồn tài trợ tư nhân cho các tuyến ĐSTĐC có thể khó khả thi và sẽ cần sự hỗ trợ đáng kể từ nguồn ngân sách Trung ương và địa phương.

Từ đó, ông Martin Baggott khuyến nghị Việt Nam nên đề xuất, rà soát, bổ sung tại dự thảo Luật Đường sắt sửa đổi quy định vai trò của Nhà nước trong huy động nguồn lực đầu tư phát triển ĐSTĐC; quy định về huy động nguồn lực của Trung ương và sự tham gia của địa phương trong đầu tư phát triển ĐSTĐC.

Nhung kinh nghiem quoc te trong dau tu duong sat toc do cao - Hinh anh 2
Tàu Shinkanshen ở Nhật Bản. Ảnh: Japan railway.

Chính sách tiếp cận công nghệ và thu hút nhân tài

Theo các chuyên gia quốc tế, về quản lý vận hành, nhiều quốc gia đã quy định về việc phân tách quyền ra quyết định và quyền khai thác tài sản đường sắt. Việt Nam cần rà soát các quy định hiện hành để đảm bảo thống nhất thực hiện các cơ chế khuyến khích phát triển đường sắt như Luật Ngân sách, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công, Nghị định về quản lý sử dụng, khai thác kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia.

Bên cạnh đó, hiện nay tất cả các quốc gia đều quan ngại về việc đảm bảo an toàn khi vận chuyển hàng hóa trên ĐSTĐC. Vì vậy, Việt Nam cũng cần cân nhắc kỹ vấn đề này.

Đối với việc chuyển giao công nghệ, ông Martin Baggott cho biết, nền tảng công nghiệp đường sắt có nhiều khác biệt giữa các quốc gia. Trong đó thường bao gồm các quốc gia tự phát triển và làm chủ công nghệ và các quốc gia nhận chuyển giao công nghệ để phát triển.

Đối với Việt Nam, cần bổ sung các quy định trong Luật Đường sắt sửa đổi liên quan đến phát triển công nghiệp đường sắt, nghiên cứu phát triển và đào tạo nguồn nhân lực. Rà soát các Luật và quy định liên quan để đồng bộ bao gồm Luật Khoa học công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Công nghệ cao.

Ông Nguyễn Ngọc Đông, nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT, cố vấn cao cấp của dự án cho biết, trên thế giới, không có quốc gia nào quy định rõ tỷ lệ chuyển giao công nghệ trong Luật. Về vấn đề này, Việt Nam sẽ xem xét để bổ sung các chính sách như: Xác định đơn vị đầu mối trong nước để tiếp nhận chuyển giao công nghệ và triển khai nghiên cứu phát triển trong lĩnh vực ĐSTĐC; Quy định chính sách cụ thể đối với việc chuyển giao công nghệ và tiếp nhận chuyển giao công nghệ có bao gồm mức độ tham gia trong nước (nội địa hóa) trong dự án; chính sách ưu đãi thu hút các chuyên gia, nhà khoa học trình độ cao trong và ngoài nước.

Tin liên quan