Giấy phép lái xe đã được xác thực trên ứng dụng VNeID được công nhận là giấy tờ hợp lệ. Ảnh: Bộ Công an |
Liên quan đến việc sử dụng và quản lý giấy phép lái xe, tại điểm a khoản 24 Điều 4 Thông tư này sửa đổi, bổ sung khoản 13 Điều 33 Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT (đã được sửa đổi, bổ sung tại điểm a khoản 19 Điều 1 Thông tư số 38/2019/TT-BGTVT) như sau:
“13. Giấy phép lái xe bằng vật liệu PET. hợp lệ là giấy phép lái xe do cơ quan có thẩm quyền cấp, có số phôi, ngày cấp, ngày hết hạn in trên giấy phép lái xe trùng với số phôi, ngày cấp, ngày hết hạn trong hệ thống thông tin quản lý giấy phép lái xe hoặc có thông tin giấy phép lái xe đã được xác thực trên VNeID.”.
Vì vậy, hiện nay tại Việt Nam, giấy phép lái xe hợp lệ là giấy phép được cấp bởi cơ quan có thẩm quyền, sử dụng vật liệu PET. Trên giấy phép lái xe có in các thông tin như số phôi, ngày cấp và ngày hết hạn, trùng khớp với thông tin được lưu trữ trong hệ thống quản lý giấy phép lái xe.
Thông tin giấy phép lái xe đã được xác thực trên ứng dụng VNeID cũng sẽ được công nhận là giấy tờ hợp lệ. Điều này có nghĩa là người dân có thể xuất trình giấy phép lái xe trên VNeID thay cho giấy tờ bản cứng khi tham gia giao thông để không bị phạt. Người dân vẫn có thể sử dụng giấy phép lái xe bản cứng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp để xuất trình khi có cơ quan có thẩm quyền yêu cầu.
Thông tư cũng quy định 6 trường hợp bị thu hồi giấy phép lái xe tại điểm b khoản 24 Điều 4, gồm:
- Người lái xe có hành vi gian dối để được cấp giấy phép lái xe;
- Người lái xe tẩy, xoá, làm sai lệch các thông tin trên giấy phép lái xe;
- Để người khác sử dụng giấy phép lái xe của mình;
- Cơ quan có thẩm quyền cấp cho người không đủ điều kiện;
- Có sai sót một trong các thông tin về họ tên, ngày sinh, quốc tịch, nơi cư trú, hạng giấy phép lái xe, giá trị cấp, ngày trúng tuyển, người ký;
- Thông qua việc khám sức khỏe, Cơ quan có thẩm quyền xác định trong cơ thể người lái xe có chất ma túy (trừ các hành vi xử lý theo quy định tại điểm c và điểm d khoản 10 Điều 5; điểm h và điểm i khoản 8 Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2019).
Ngoài ra, người lái xe có các hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả, sử dụng giấy phép lái xe đã khai báo mất để điều khiển phương tiện cơ giới đường bộ, cơ quan quản lý giấy phép lái xe cập nhật dữ liệu về hành vi vi phạm trên hệ thống thông tin giấy phép lái xe kể từ ngày phát hiện hành vi vi phạm.
Người có hành vi vi phạm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và không được cấp giấy phép lái xe trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày phát hiện hành vi vi phạm; nếu có nhu cầu cấp lại giấy phép lái xe phải học và sát hạch lại như trường hợp cấp giấy phép lái xe lần đầu.
TQ