Những chiếc xe này được đánh giá trên nhiều tiêu chí như vẻ đẹp và sự hoàn hảo, thiết kế độc đáo mang tính đột phá hay ghi nhận những dấu mốc về lịch sử phát triển của xe ô tô.
Một số mẫu xe được nhắc đến nhiều nhất nhưng nhiều khi lại không nằm trong danh sách được chọn như Ford Model T được sản xuất năm 1908, nó có sức ảnh hưởng nhất đối với sự thay đổi về quá trình sản xuất và tiếp thị sản phẩm, Ford F-150 với doanh số bán hàng đáng kinh ngạc hay nhiều mẫu đã đánh dấu sự hiện diện trong các dấu ấn lịch sử.
Dưới đây là một số mẫu xe được Autoevolution lựa chọn cho danh hiệu chiếc xe vĩ đại nhất.
|
Ford Mustang Shelby GT500
Đây là phiên bản cuối cùng của dòng xe nổi tiếng nhất nước Mỹ mà chung ta thường thấy chúng trong các bộ phim. |
Ford Mustang Shelby GT500
Chiếc xe mang tính biểu tượng này được trang bị động cơ 428-cu in (7,0 lít) 360 mã lực dựa trên động cơ Police Interceptor V8. Động cơ được trang bị hai bộ chế hòa khí 4 nòng 600 CFM Holley đặt trên một ống nạp bằng nhôm ở giữa. Khách hàng có thể lựa chọn giữa hộp số sàn 4 cấp tiêu chuẩn, RUGS-1 hoặc hộp số tự động 3 cấp.
Ngoài ra, khung xe được nâng cấp với lò xo phía trước cứng hơn, giảm xóc Gabriel và thanh chống lật. Một trong những chiếc xe năm 1967 này có phiên bản sửa đổi một chút của GT40 Động cơ của Mk II 428 và sản sinh công suất 520 mã lực. Nó được gọi là Siêu rắn và trở thành biểu tượng nhất trong tất cả các GT500.
Động cơ V8 đặc biệt này ban đầu được cung cấp trên Impala 1961, nhưng vào năm 1962 nó sẽ có 2 phiên bản đi kèm là cơ 6 xi-lanh công suất 135 mã lực hoặc động cơ V8 phân khối nhỏ 283 (4,6 lít) công suất 170 mã lực.
|
Chevrolet Impala SS 409 sản xuất năm 1962. |
Chevrolet Impala SS 409 1962
Chevrolet không còn cung cấp 283 mà chuyển thẳng sang loại 327ci 5,4 lít mới có công suất 250 hoặc 300 mã lực. Nhưng quan trong nhất là động cơ V8 409 hàng đầu 6,7 lít trước đây được cung cấp dưới dạng tùy chọn vào năm 1961 nay đã trở thành sự thay thế hoàn toàn cho loại 348.
Với những gì nhìn thấy thì Impala SS 409 này là định nghĩa của sự hoàn hảo tuyệt đối, phiên bản năm 1962 với các cải tiến về kiểu dáng bổ sung, bao gồm thiết kế mui xe chuyển đổi sang phong cách thân xe Sport Coupe và cột C mới được sử dụng trên tất cả các mẫu xe ngoại trừ mui cứng bốn cửa.
Chevy trông nguyên bản nổi bật trong các bức ảnh, từ màu sơn đỏ La Mã và nội thất ghế băng đơn giản. Nó dường như là một tác phẩm được trình bày độc đáo mà các nhà sưu tầm cho rằng đây một phần thực sự đáng chú ý của lịch sử hoạt động của Chevrolet.
|
Dodge Charger được giới thiệu với công chúng vào mùa thu năm 1969, đến năm 1970 nó đã trở thành một câu chuyện thành công lớn cho bộ phận Dodge của Tập đoàn Chrysler. |
1969 Dodge Charger R/T
Một chiến dịch quảng cáo tuyệt vời đã được thực hiện để quảng cáo các mẫu Dodge Charger mới cho năm 1970. Các mẫu xe này có sẵn với động cơ 6 hoặc 8 xi-lanh, cùng với lưới tản nhiệt mới, đèn hậu và các tính năng mới khác.
Dodge Charger R/T là một trong những mẫu xe dẫn đầu về hiệu suất, mẫu xe này có sẵn với động cơ 6 xi-lanh hoặc động cơ V8 phổ biến. Chrysler gọi các mẫu Dodge Charger 1970 là xe thể thao cá nhân sang trọng, cùng với gói trang trí nội, ngoại thất đặc biệt. Ngoài ra, nó có một tấm cản lớn mới bao bọc hoàn toàn lưới tản nhiệt phía trước và các đèn pha ẩn phổ biến đó. Một tính năng tuyệt vời khác là kiểu dáng khí động học phía sau của Charger.
Các mẫu xe Dodge năm 1970 dẫn đầu về doanh số bán xe trong suốt thập kỷ và là mẫu được nhiều tài xế trẻ tuổi cũng như những người đam mê xe hơi đã thích kiểu dáng tuyệt vời của nó.
|
Dấu ấn đậm nét nhất phải kể đế mẫu xe Hudson Hornet ra mắt vào năm 1951. |
Hudson Hornet 1951
Hudson hãng sản xuất ô tô ra đời năm 1909, sau đó đã trở thành nhà sản xuất ô tô lớn thứ 3 thế giới vào năm 1920. Nhưng dấu ấn đậm nét nhất phải kể đế mẫu xe Hudson Hornet ra mắt vào năm 1951.
Hudson Hornet là một trong những chiếc xe sản xuất đầu tiên có khung chu vi, nó dựa trên thiết kế “bước xuống" của Hudson Commodore thế hệ thứ ba. Thay vào đó, nó có thiết kế sàn lõm xuống giữa các thanh ray, dẫn đến vị trí ngồi thấp hơn bình thường. Thiết kế này đã hạ thấp trọng tâm của chiếc xe và cho phép một chuyến đi mượt mà và khả năng xử lý chính xác và đây cũng là kiểu thiết kế độc đáo thời điểm đó.
Hornet được trang bị động cơ H-145 inline-sáu có độ nén cao, có dung tích 5,0 lít thuộc loại đầu phẳng, nhà máy của Hudson sản xuất hàng loạt lớn nhất cho xe du lịch vào thời điểm đó. Với bộ chế hòa khí hai thùng, ban đầu nó được đánh giá ở công suất 145 mã lực và mô-men xoắn 373 Nm, nhưng Hudson đã nâng cấp nó lên 170 mã lực vào năm 1954. Xe có thể đạt tốc độ tối đa 180 km/h, một con số khó tin vào thời điểm đó và đã trở thành nhà vô địch với 64 chiến thắng trong các đua.